
Thời gian qua, Việt Nam đã có nhiều nỗ lực để cải thiện khung pháp lý về bảo vệ các loài động vật hoang dã (ĐVHD) thông qua việc sửa đổi, ban hành các quy định pháp luật phù hợp với yêu cầu nội luật hóa quy định của các điều ước quốc tế về bảo vệ ĐVHD cũng như phòng, chống tội phạm; đặc biệt là việc bổ sung và hoàn thiện hai điều luật về bảo vệ ĐVHD trong Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 (BLHS năm 2015) gồm: Điều 234 - Tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật hoang dã và Điều 244 - Tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm.
Tuy nhiên, qua quá trình rà soát, phân tích các quy định của pháp luật tố tụng hình sự được áp dụng trong thực tiễn xử lý các hành vi vi phạm hai tội danh nêu trên, chúng tôi nhận thấy vẫn còn tồn tại một số bất cập trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2021 (BLTTHS năm 2015), cũng như trong một số văn bản pháp luật liên quan trực tiếp đến quá trình điều tra, truy tố, xét xử các vụ án vi phạm quy định về bảo vệ ĐVHD, động vật nguy cấp, quý, hiếm như sau:
1. Giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố[i]
- Chưa quy định cụ thể về tiếp nhận, phân loại, xử lý nguồn tin về tội phạm do cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phát hiện: Theo điểm d khoản 1 Điều 4 BLTTHS năm 2015, có 05 nguồn tin tội phạm gồm: (a) tố giác; (b) tin báo về tội phạm; (c) kiến nghị khởi tố của cơ quan, tổ chức, cá nhân; (d) lời khai của người phạm tội tự thú; và (e) thông tin về tội phạm do cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trực tiếp phát hiện. Tuy nhiên, BLTTHS năm 2015 và Thông tư liên tịch số 01/2017/TTLT-BCA-BQP-BTC-BNN&PTNT-VKSNDTC (sửa đổi, bổ sung bởi Thông tư liên tịch số 01/2021) (TTLT số 01/2017)[ii] chỉ tập trung quy định chi tiết trình tự, thủ tục tiếp nhận và giải quyết đối với bốn loại nguồn tin đầu tiên, chưa có hướng dẫn cụ thể đối với loại nguồn tin thứ năm. Trong khi đó, thực tế có nhiều thông tin liên quan đến ĐVHD được phát hiện bởi cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng như Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án hoặc các lực lượng được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra như Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, Cảnh sát biển, Kiểm ngư thông qua hoạt động quản lý Nhà nước, tuần tra, kiểm soát. Các trường hợp này đặt ra câu hỏi về thẩm quyền kiểm sát, thời hạn và thủ tục xử lý nguồn tin.
- Các hoạt động giải quyết nguồn tin về tội phạm còn khá hạn chế, không tương thích với một số quy định khác trong BLTTHS năm 2015: Khoản 3 Điều 147 BLTTHS năm 2015 quy định các cơ quan có thẩm quyền tiến hành các hoạt động: (a) thu thập thông tin, tài liệu, đồ vật, từ cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan; (b) khám nghiệm hiện trường; (c) khám nghiệm tử thi, (d) trưng cầu giám định, yêu cầu định giá tài sản. Tuy nhiên, hoạt động khám xét không được đề cập mặc dù quy định tại khoản 2 Điều 193 của Bộ luật này cho thấy hoạt động khám xét hoàn toàn có thể được tiến hành trước khi khởi tố vụ án hình sự trong “trường hợp khẩn cấp”.
- Chưa có quy định thời hạn Viện kiểm sát phải đưa ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố: Khoản 2 Điều 148 BLTTHS năm 2015 không quy định thời hạn nhưng tại Quyết định số 111/QĐ-VKSTC ngày 17/4/2020 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao về việc ban hành quy chế công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khởi tố, điều tra và truy tố (Quy chế 111) quy định trong thời hạn 15 ngày để Viện kiểm sát xem xét và chuyển trả hồ sơ cho Cơ quan có thẩm quyền điều tra để giải quyết theo thẩm quyền. Tuy nhiên, quy định trên mới chỉ mang tính hướng dẫn ngành, được ban hành dưới hình thức văn bản dưới luật, chưa có hiệu lực pháp lý ràng buộc cao như luật.
- Thiếu quy định đầy đủ về các trường hợp tạm đình chỉ giải quyết nguồn tin về tội phạm: Khoản 1 Điều 148 BLTTHS năm 2015 chỉ liệt kê 02 trường hợp cơ quan có thẩm quyền ra quyết định tạm đình chỉ, gồm (a) đã trưng cầu giám định, yêu cầu định giá tài sản, yêu cầu nước ngoài tương trợ tư pháp nhưng chưa có kết quả; (b) đã yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật quan trọng có ý nghĩa quyết định đối với việc khởi tố hoặc không khởi tố vụ án nhưng chưa có kết quả. Tuy nhiên, trên thực tế, có trường hợp không xác định được người bị tố giác đang ở đâu để yêu cầu họ cung cấp tài liệu, đồ vật.
- Chưa xác định đầy đủ các cơ quan có thẩm quyền phục hồi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố: Theo điểm c khoản 3 Điều 145 BLTTHS năm 2015, Viện kiểm sát cũng có thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố. Tuy nhiên, cơ quan này không được liệt kê tại khoản 1 Điều 149 BLTTHS năm 2015 là một trong các chủ thể có thẩm quyền ra quyết định phục hồi việc giải quyết nguồn tin.
Khuyến nghị:
- BLTTHS năm 2015 và TTLT số 01/2017: bổ sung quy định chi tiết về việc tiếp nhận, phân loại, xử lý nguồn tin về tội phạm do cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trực tiếp phát hiện, nhằm đảm bảo tính thống nhất, minh bạch và hiệu quả trong thực thi pháp luật.
- Khoản 3 Điều 147 BLTTHS năm 2015: bổ sung thêm hoạt động khám xét.
- Khoản 1 Điều 148 BLTTHS năm 2015: bổ sung trường hợp tạm đình chỉ “Khi không biết rõ người bị tố giác đang ở đâu nhưng đã hết thời hạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố”.
- Khoản 2 Điều 148 BLTTHS năm 2015: bổ sung thời gian Viện kiểm sát phải chuyển trả hồ sơ cho Cơ quan có thẩm quyền điều tra để giải quyết theo thẩm quyền trong trường hợp tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố (thời gian 07 ngày phù hợp với khoảng thời gian trong các quy định tương ứng khác của BLTTHS năm 2015, Quy chế 111 và TTLT số 01/2017).
- Khoản 1 Điều 149 BLTTHS năm 2015: bổ sung thêm thẩm quyền ra quyết định phục hồi việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố cho Viện kiểm sát.
|
2. Thẩm quyền điều tra của các cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động điều tra
- Chưa quy định đầy đủ thẩm quyền khởi tố, điều tra cho các lực lượng chuyên trách như: Bộ đội biên phòng, Hải quan, Cảnh sát biển, Kiểm lâm, Kiểm ngư. Theo quy định tại Chương V Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự năm 2015, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan bị giới hạn như sau:
- Kiểm lâm, Kiểm ngư chỉ có thẩm quyền khởi tố và điều tra đối với các hành vi vi phạm quy định tại Điều 244 BLHS năm 2015, không có thẩm quyền điều tra đối với các hành vi vi phạm quy định tại Điều 234 BLHS năm 2015.
- Bộ đội biên phòng, Hải quan, Cảnh sát biển không có thẩm quyền khởi tố và điều tra đối với các hành vi vi phạm quy định tại Điều 234, 244 BLHS năm 2015.
Trong khi đó, đây đều là các lực lượng có vai trò quan trọng trong công tác quản lý, kiểm soát và thực thi pháp luật về bảo vệ ĐVHD. Họ cũng là đầu mối bảo đảm việc thực thi Công ước về buôn bán quốc tế các loài động vật, thực vật hoang dã nguy cấp (CITES) tại Việt Nam[iii]. Tuy nhiên, do không được trao thẩm quyền điều tra, các cơ quan này buộc phải chuyển giao hồ sơ, tài liệu và tang vật cho cơ quan điều tra có thẩm quyền, dẫn đến kéo dài quy trình xử lý nguồn tin về tội phạm, làm giảm tính kịp thời và hiệu quả trong phòng, chống tội phạm. Đồng thời, việc này cũng chưa phát huy hết vai trò của các lực lượng này, nhất là trong xử lý các vụ án có yếu tố xuyên biên giới.
- Chưa quy định thẩm quyền xử lý vật chứng cho các cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động điều tra: Theo quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 106 BLTTHS năm 2015 thì các cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động điều tra được quyền xử lý vật chứng, bao gồm vật chứng là ĐVHD. Tuy nhiên, Điều 39 BLTTHS lại không ghi nhận thẩm quyền xử lý vật chứng trong danh mục nhiệm vụ, quyền hạn của cấp trưởng, cấp phó và cán bộ điều tra thuộc các cơ quan như Bộ đội Biên phòng, Hải quan, Cảnh sát biển, Kiểm lâm, Kiểm ngư. Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự cũng chỉ quy định trách nhiệm tạm giữ và bảo quản vật chứng, mà chưa trao quyền xử lý, gây khó khăn trong thực tiễn hoạt động của các lực lượng này.
Khuyến nghị:
- Từ Điều 32 đến Điều 36 Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự năm 2015: bổ sung Điều 234 và Điều 244 BLHS năm 2015 vào danh mục các tội mà các cơ quan như Bộ đội Biên phòng, Hải quan, Cảnh sát biển, Kiểm lâm, Kiểm ngư được phép tiến hành một số hoạt động điều tra khi phát hiện tội phạm trong quá trình thực hiện nhiệm vụ thuộc lĩnh vực được phân công quản lý.
- Điểm d khoản 2 Điều 39 BLTTHS năm 2015 và từ Điều 32 đến Điều 36 Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự năm 2015: bổ sung thêm thẩm quyền xử lý vật chứng, tài liệu liên quan trực tiếp đến vụ án cho cấp trưởng, cấp phó, cán bộ điều tra của các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra.
|
3. Giám định
- Giám định loài là bước khởi đầu quan trọng nhằm xác định một hành vi có dấu hiệu vi phạm pháp luật về bảo vệ ĐVHD hay không. Tuy nhiên, trong thực tiễn, việc giám định loài đôi khi gặp khó khăn, đặc biệt khi đối tượng giám định là các loài lai hoặc có nguồn gốc ngoại lai. Trong một số trường hợp, cần phải tiến hành giám định lại nhằm bảo đảm tính chính xác và khách quan của kết luận chuyên môn. Tại Điều 211 BLTTHS năm 2015 quy định về việc giám định lại nhưng chưa quy định cụ thể cách xử lý khi có hai kết luận giám định khác nhau. Trong khi đó, pháp luật về định giá tài sản đã có quy định tương tự tại khoản 2 Điều 218 BLTTHS, nêu rõ việc công nhận và sử dụng kết quả định giá lại để giải quyết vụ án.
Khuyến nghị:
- Khoản 3 Điều 211 BLTTHS năm 2015: bổ sung quy định về việc sử dụng kết luận giám định “Trường hợp có sự khác nhau giữa kết luận giám định lần đầu và kết luận giám định lại về cùng một nội dung giám định thì việc giám định lại lần thứ hai do người trưng cầu giám định quyết định. Việc giám định lại lần thứ hai phải do Hội đồng giám định thực hiện theo quy định của Luật giám định tư pháp. Kết luận giám định lại trong trường hợp này được sử dụng để giải quyết vụ án.”
|
4. Định giá
- Chưa có quy định về thời hạn định giá tài sản: Giá trị của tang vật là động vật, cá thể, bộ phận cơ thể hoặc sản phẩm từ động vật là căn cứ quan trọng để xem xét trách nhiệm hình sự theo các Điều 190, 191 và 234 của BLHS năm 2015. Việc định giá được thực hiện theo quy định tại Điều 215, 216 BLTTHS năm 2015 và các văn bản hướng dẫn thi hành[iv]. Tuy nhiên, quy định này chỉ nêu chung rằng việc định giá phải được thực hiện đúng thời gian theo đề nghị của cơ quan thành lập Hội đồng định giá, mà không có hướng dẫn cụ thể về khung thời hạn định giá. Sự thiếu cụ thể này dẫn đến tình trạng một số vụ việc bị kéo dài trong khâu định giá, gây khó khăn cho quá trình giải quyết vụ án, đặc biệt là trong việc xử lý, bảo quản vật chứng.
- Chưa quy định đầy đủ về trường hợp định giá lại tài sản: Khoản 1 Điều 218 BLTTHS năm 2015 quy định trường hợp định giá lại khi“có nghi ngờ kết luận định giá lần đầu, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng tự mình hoặc theo đề nghị của người bị buộc tội, người tham gia tố tụng khác ra văn bản yêu cầu định giá lại tài sản”. Tuy nhiên, trong thực tiễn, có nhiều trường hợp Hội đồng định giá tài sản từ chối thực hiện định giá vì lý do "không xác định được giá thị trường", đặc biệt đối với tang vật là ĐVHD là hàng cấm/hạn chế giao dịch. Trong các trường hợp này, cơ quan tiến hành tố tụng lại không có cơ sở pháp lý để yêu cầu định giá lại.
- Bất cập trong quy định điều chỉnh về giá địa phương: Khoản 2 Điều 15 Nghị định số 30/2018/NĐ-CP quy định căn cứ định giá tài sản là hàng cấm: “Giá mua bán thu thập được trên thị trường không chính thức tại thời điểm và tại nơi tài sản là hàng cấm được yêu cầu định giá hoặc tại địa phương khác” và “Trường hợp thu thập nguồn thông tin về mức giá tài sản tại thời điểm khác hoặc ở địa phương khác thì mức giá đó cần được điều chỉnh phù hợp về thời điểm và nơi tài sản được yêu cầu định giá”, dẫn đến trường hợp Hội đồng định giá tài sản đã từ chối định giá vì không xác định được mức giá giao dịch ĐVHD tại địa phương để điều chỉnh[v].
Khuyến nghị:
- Khoản 1 Điều 217 BLTTHS năm 2015: bổ sung quy định thời hạn tối đa để thực hiện yêu cầu định giá “Việc định giá tài sản do Hội đồng định giá tài sản tiến hành trong thời gian 10 ngày kể từ khi nhận được yêu cầu định giá tài sản. …”
- Khoản 1 Điều 218 của BLTTHS năm 2015: bổ sung trường hợp định giá lại khi hội đồng định giá có văn bản trả lời không định giá được tài sản yêu cầu.
- Khoản 2 Điều 15 Nghị định số 30/2018/NĐ-CP: bỏ quy định yêu cầu điều chỉnh về giá thị trường tại địa phương.
|
5. Xử lý vật chứng
- Quy định chưa đầy đủ về đối tượng vật chứng là loài ngoại lai: Tại điểm d khoản 3 Điều 106 BLTTHS năm 2015 quy định về việc xử lý vật chứng là “động vật hoang dã và thực vật ngoại lại”. Thực tế, ngoài thực vật ngoại lại còn có động vật, thủy sản ngoại lại ban hành kèm theo Thông tư số 35/2018/TT-BTNMT ngày 28/12/2018 của Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định tiêu chí xác định và ban hành Danh mục loài ngoại lai xâm hại.
- Chưa xác định cụ thể cơ quan quản lý chuyên ngành: cơ quan nào là cơ quan quản lý chuyên ngành chưa được xác định tại các văn bản dưới luật, gây nên khó khăn trong việc xác trách nhiệm tiếp nhận, bảo quản, xử lý vật chứng là ĐVHD.
- Chưa quy định hết các thời điểm được xử lý vật chứng là ĐVHD: Khoản 3 Điều 106 BLTTHS năm 2015 hiện chỉ quy định xử lý vật chứng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử. Tuy nhiên, đối với ĐVHD, đặc biệt là các cá thể còn sống, yêu cầu các biện pháp xử lý kịp thời như: thả ngay động vật về môi trường tự nhiên, chuyển giao cho cơ sở cứu hộ… để đảm bảo mục tiêu bảo tồn. Hoặc cũng có rất nhiều vụ án liên quan đến ĐVHD bị tạm đình chỉ, đình chỉ điều tra do đối tượng bỏ trốn, chưa có kết quả yêu cầu tương trợ tư pháp, định giá tài sản, không chứng minh được bị can thực hiện tội phạm…Vì vậy, cần bổ sung quy định cho phép xử lý vật chứng ngay trong giai đoạn xác minh tố giác, tin báo tội phạm, hoặc khi vụ án bị tạm đình chỉ, đình chỉ điều tra.
Khuyến nghị:
- Điểm d khoản 3 Điều 106 BLTTHS năm 2015: sửa đổi thực vật ngoại lai thành loài ngoại lai “vật chứng là động vật hoang dã và thực vật loài ngoại lại thì ngay sau khi có kết luận giám định phải giao cho cơ quan quản lý chuyên ngành có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật.”
- Xác định cơ quan quản lý chuyên ngành tại các văn bản liên quan để đảm bảo đồng bộ.
- Khoản 3 Điều 106 BLTTHS năm 2015: bổ sung quy định cho phép xử lý vật chứng ngay ở giai đoạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố; hoặc khi vụ án bị tạm đình chỉ/đình chỉ điều tra.
|
6. Dữ liệu điện tử
- Chưa có hướng dẫn cụ thể về các hoạt động thu thập, kiểm tra, phục hồi, giám định, đánh giá dữ liệu điện tử: Trong bối cảnh các đối tượng phạm tội ngày càng tận dụng triệt để công nghệ số để che giấu hành vi phạm pháp, tội phạm buôn bán trái phép ĐVHD cũng không nằm ngoài xu hướng này. Việc dữ liệu điện tử được ghi nhận là một nguồn chứng cứ tại khoản 1 Điều 87 BLTTHS năm 2015 cho thấy sự thích ứng của pháp luật với sự gia tăng của tội phạm công nghệ cao. Tuy nhiên, ngoài một số quy định tại các Điều 99, 107, 196 của Bộ luật này thì chưa có hướng dẫn cụ thể về quy trình thu thập, sử dụng loại chứng cứ đặc thù này. Trong thực tế, việc xử lý dữ liệu điện tử vẫn chủ yếu dựa vào năng lực chuyên môn và kinh nghiệm cá nhân của điều tra viên, kiểm sát viên và giám định viên, tiềm ẩn nguy cơ sai sót, ảnh hưởng đến tính hợp pháp và giá trị chứng minh của chứng cứ điện tử trong các vụ án.
- Chưa quy định trách nhiệm phối hợp của các tổ chức, cá nhân liên quan, đặc biệt là các đơn vị cung cấp dịch vụ viễn thông, internet, tài chính, ngân hàng, và các nền tảng mạng xã hội trong việc cung cấp dữ liệu điện tử khi có yêu cầu của các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng: Trong rất nhiều vụ việc cho thấy các đối tượng buôn bán trái phép ĐVHD đã sử dụng mạng xã hội để quảng cáo, rao bán ĐVHD, tổ chức các nhóm kín nhằm trao đổi thông tin, hình ảnh, thỏa thuận giá cả và sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử để thực hiện giao dịch, chuyển tiền nhằm tránh bị phát hiện. Việc thiếu quy định cụ thể về cơ chế phối hợp từ các đơn vị cung cấp dịch vụ dẫn đến tình trạng chậm trễ, thiếu đồng bộ hoặc thậm chí là từ chối cung cấp dữ liệu, gây cản trở đáng kể cho công tác điều tra, xử lý tội phạm.
Khuyến nghị:
- Ban hành quy định/hướng dẫn chi tiết về hoạt động thu thập, kiểm tra, phục hồi, giám định, đánh giá dữ liệu điện tử đảm bảo tính hợp pháp, khách quan và giá trị chứng minh của loại chứng cứ này trong tố tụng hình sự.
- Bổ sung quy định làm rõ trách nhiệm phối hợp của các cá nhân, tổ chức trong việc cung cấp dữ liệu điện tử theo yêu cầu của các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
|
Kết luận
Kết quả rà soát trên cho thấy BLTTHS năm 2015 và các văn bản liên quan vẫn còn một số hạn chế khi áp dụng vào giải quyết các vụ án liên quan đến ĐVHD. Do đó, việc tiếp tục hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự, đặc biệt là các nội dung về thẩm quyền điều tra, xử lý vật chứng, định giá, giám định và dữ liệu điện tử là cần thiết và cấp bách. Những kiến nghị này và các tài liệu nghiên cứu của WCS Việt Nam là cơ sở để các cơ quan có thẩm quyền tham khảo trong quá trình sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện pháp luật, nhằm tăng cường hiệu quả phòng ngừa và đấu tranh với tội phạm liên quan đến ĐVHD tại Việt Nam.
WCS Việt Nam
[ii] Thông tư liên tịch số 01/2017/TTLT-BCA-BQP-BTC-BNN&PTNT-VKSNDTC ngày 29/12/2017 giữa Bộ Công an – Bộ Quốc phòng – Bộ Tài chính – Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn – Viện kiểm sát nhân dân tối cao quy định việc phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền trong việc thực hiện một số quy định của BLTTHS năm 2015 về tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố (sửa đổi, bổ sung bởi Thông tư liên tịch số 01/2021/TTLT-BCA-BQP-BTC-BNN&PTNT-VKSNDT ngày 29/11/2021).
[iii] Điều 39 Nghị định số 06/2019/NĐ-CP ngày 22/01/2019 của Chính phủ về quản lý thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm và thực thi Công ước về buôn bán quốc tế các loài động vật, thực vật hoang dã nguy cấp (sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định 84/2021).
[iv] Nghị quyết số 30/2018/NĐ-CP ngày 07 tháng 3 năm 2018 của Chính phủ quy định chi tiết việc thành lập và hoạt động của Hội đồng định giá tài sản; trình tự, thủ tục định giá tài sản trong tố tụng hình sự, được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 97/2019/NĐ-CP ngày 23/12/2019 và Thông tư số 30/2020/TT-BTC của Bộ Tài chính ngày 17/4/2020 hướng dẫn một số điều của Nghị quyết số 30/2018/NĐ-CP.
[v] Vụ án Nguyễn Đức Tài (2023): Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Đà Nẵng từ chối định giá 6.232kg vảy tê tê do loại hàng này không buôn bán phổ biến tại thị trường Đà Nẵng nên không có thông tin giá để làm cơ sở so sánh, điều chỉnh giá từ thị trường khác về thị trường Đà Nẵng.